Nghiêm Xuân Cường
Đội 16 – HTX THắng Lợi - BC11R
Đà Nẵng giải phóng, tôi chuyển về trạm giao-tế Quân khu, đóng tại khách sạn Bạch Đằng soi mình bên dòng sông Hàn thơ mộng và xinh đẹp. Nếu so với thời sống trên rừng Trường Sơn thì đó đúng là những ngày “hoàng kim” trong cuộc đời Quân giải phóng của tôi.
Thường xế chiều rỗi rãi, ba chúng tôi: anh Tại - tổ trưởng lái xe người Trung Hòa – Hà nội, Hồ Lê Thanh K6 và tôi lại cùng nhau đi dạo bên bờ sông Hàn lộng gió, rồi ngồi xuống những chiếc ghế tựa căng bạt nilon xanh đỏ của một quán giải khát vỉa hè bên sông. Cả ba chúng tôi đều khoái uống la-ze con cọp pha nước cam. Ới gọi cô chủ quán dễ thương: – Em ơi, Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát đi (thuốc CAPSTAN). Thế rồi chúng tôi hàn huyên đủ thứ chuyện: chuyện đời lính, chuyện gia đình, xã hội… và cả ước vọng cuộc đời sau ngày giải ngũ. Có một lần anh Tại bỗng hỏi chúng tôi: “Trong đời lính, ai có chuyện gì mà mình cho là sâu sắc nhất, hãy kể đi”. Một thoáng bối rối. Đời lính biết bao kỉ niệm sâu sắc mà không thể nào quên, nhưng đã lúc nào kịp xếp hạng đâu. Nhưng rồi tôi cũng kể cho mọi người câu chuyện đã khiến tôi phải trăn trở mãi.
Đó là mùa hè 1973. Đơn vị tôi: D3-E230 với nhiệm vụ chính là mở đường. Tuy không trực tiếp cầm súng đối diện với ác liệt của chiến tranh nhưng với mức độ khốc liệt, gian khổ của chiến trường thì lãnh đủ. Cả đại đội đều là các chàng sinh viên Cơ-Điện mặc áo lính, chỉ quen cầm bút.Thế mà nay chọc xà beng, cầm cuốc, cầm trang, lại hăng ra phết. Nhiều lúc chúng tôi tự hỏi nhau không biết lấy sức lực, tinh thần từ đâu mà có thể làm tốt nhiệm vụ đến vậy. Thực hiện khẩu hiệu: hai tối một sáng (Nghĩa là ngày ăn 2 bữa trời tối 1 bữa trưa trời sáng). Và: làm việc ngày không giờ, tuần không thứ... Hàng ngày dậy từ 4 giờ, ăn mấy bát sắn khô độn cơm với lá sắn luộc xào muối rồi cầm đuốc soi đường ra tuyến. Trời mờ sáng là chúng tôi hùng hục chọc chọc, cuốc cuốc, cào cào… Làm “thí xác”, dưới nắng hè Tây Nguyên như đổ lửa. Quần áo lúc nào cũng ướt sũng mồ hôi như lội từ dưới suối lên. Buổi trưa, sau bữa ăn tại chỗ do anh nuôi gùi ra, mọi người bẻ lá rừng trải lên mặt đường nham nhở ngả lưng lấy sức mươi phút rồi lại tiếp tục chiến đấu. Đến tối không rõ mặt người mới thu dụng cụ về trại. Vất vả là vậy mà ai cũng hăng say làm việc quên mệt nhọc, trên tuyến không lúc nào ngớt tiếng cười nói trêu chọc nhau. Đúng là tuổi trẻ có khác, sinh viên Cơ Điện có khác.
Ngày qua ngày. Con đường dần kéo dài ra. Nối từ sông Trà Gùi. Qua Nước Nẻ, sông Tranh, sông Din, sông Tang, rồi đến đất Trà Bồng - Quảng Ngãi. Hôm đó là một ngày của tháng 8 năm 1973. Tuyến đường chúng tôi phải mở, đi qua không phải là triền núi hoang vu không một bóng người, mà là đi qua ngang một rãy lúa của đồng bào dân tộc. Khi nhận tuyến, nhìn những cây lúa đang thì con gái xanh mơn mởn ai cũng ái ngại. Nhưng biết làm sao, tim tuyến đã được cắm cọc, chăng dây rồi. Chợt nhớ câu thơ viết cho báo tường đại đội của ĐVT (K7): “ Vượt qua chông gai mà ra tuyến; Đảng chỉ rừng sâu bảo phải làm...” Rừng sâu còn không sợ, chứ huống hồ đây chỉ là nương lúa… Thế là chúng tôi lại hùng hục chọc chọc, cuốc cuốc, cào cào… Làm “thí xác”. Xế chiều, khối lượng hoàn thành. Nhìn lại đoạn đường mới mở, đất đỏ au, đạt tiêu chuẩn. Này nhé: ta-luy dương phẳng phiu đủ độ dốc, mặt đường 4 mét rưỡi đất nguyên thổ, bằng phẳng. Hẳn ai cũng hài lòng với thành quả của mình.
Tôi nhìn xuống ta-luy âm. Rẫy lúa mơn mởn khi sáng nay chỉ còn là hoang tàn, bầm dập. Chợt thấy một bóng người liêu xiêu đi lại. Nhìn kỹ là một bà mẹ dân tộc Cor. Mẹ đang lom khom vuốt thẳng từng cây lúa dập nát còn sót. Không biết vừa làm mẹ vừa nghĩ gì? Nương lúa của bao ngày vất vả. Một nắng, hai sương. Lòng tôi thắt lại, trĩu nặng.
Đem tâm trạng của mình tâm sự với một chiến hữu, tôi nhận được lời chia sẻ: “Thôi, quên đi, nghĩ làm gì. Mình không có lỗi vì ta chỉ là cơ cấu chấp hành thôi, họ bảo đâu mình làm đấy” à “Tất cả là do chiến tranh. Trong cuộc chiến này, những hy sinh, mất mát không chỉ chúng ta: những người lính, mà cả dân tộc đều phải chấp nhận”.
Còn tôi, không hiểu sao hình ảnh bà mẹ Cor: khắc khổ, đen đúa, gầy gò, khẳng khiu, liêu xiêu trong xế chiều, lom khom vuốt thẳng từng cây lúa… đã làm tôi không thể, không bao giờ quyên được. Có phải chỉ do chiến tranh không? Tôi không thể lý giải được nên cứ trăn trở mãi.
Hay lắm . Chúc Nghiêm Cường viết nhiều thêm về kỉ niệm đơi lính chúng mình nhé .
Trả lờiXóaMột kỷ niệm sâu sắc nhất mà lại thật đơn giản! Một kỷ niệm rất nhân đạo, tôi thấy còn sâu sắc hơn cả chuyện bắn tà dương hồi nào. Trước cái chết người ta dễ phân biệt hơn nhưng trong những cái mà nhiều người cho là nhỏ nhoi thì không dễ mà có được cảm xúc mà lại sâu sắc nhất đời lính như thế này được. Nhìn bạn nhớ lại cảnh người mẹ Cor vuốt từng cây lúa do bộ đội ta làm gẫy mà lòng tôi cũng vẫn còn xót sa!
Trả lờiXóaVừa về đến nhà từ Ba Tơ,nhớ anh em quá nên vào đọc cho đỡ thèm.Bên K6 chưa thêm bài mới ,K10 thì để chuyện cuả Thế làm loạn đi tuy có nhiều bài về 8-3.Đọc bài của anh Cường thấy đau quá,không phải đau vì cả nương lúa bị phá mà đau vì những cây lúa còn sót lại không được chăm sóc cẩn thận.Nó như bây giờ vì cái lợi nhỏ,gần và cho bản thân hay nhóm người mà họ có thể phá không thương tiếc thành quả của người lao động như vụ Tiên Lãng là điển hình.Chúc mừng anh Cường về kỷ niệm hết sức sâu sắc và nhân văn đó.Mong rằng chúng ta hay họ đwngf đi vào vết xe đổ đó nữa.
Trả lờiXóaĐọc"Trăn trở"của bạn,Tôi lại nhớ ngày đầu tiên về c6-E230jmột đại đội lính công binh quân giải phóng-những kỉ niệm về những ngày tháng mở đường ,chân thật giản dị như những điều bạn nói, lại ùa về -đúng là "tuy không trực tiếp cầm súng đối diện với ác liệt của chiến tranh,nhưng với mức độ khốc liệt, gian khổ vắt kiệt sức người để hình thành nên đoan đường tuyến:Làng Hồi-trà gùi-Nước Lẻ- Sông Tranh -nóc ông đồi-Trà niêu-Sông tang..."của lính 1040 ,của công binh quân khu 5,thật không thể nói hết được .Con đường Trường Sơn huyền thoại có một phần đời,một phần đóng góp của bạn ,của chúng ta -thật đáng tự hào...
Trả lờiXóaNhững ngày tháng mở đường đã để lại cho mỗi chúng ta -lính Đ.1040 quá nhiều kỉ niệm sâu đậm. Đó là thời kì đầu tiên trong quãng đời Quân giải phóng .Để nhớ lại những ngày mở đường của Trung đoàn “ hai ba sắn”,rất mong chiến hữu nào có ghi chép được hay còn nhớ . về :- các mốc thời gian , địa danh chúng ta đã qua .
Trả lờiXóa- Những kỉ niệm ,câu chuyện …vui buồn .
Trong thời mở đường nói riêng ,trong cuộc đời quân giải phóng nói chung .Hãy bày tỏ với nhau nhé , Và mong tất cả các bạn đọc cùng tham gia chia sẻ .
Nhân đây tôi xin chép lại bài thơ đăng báo tường đại đội của Bùi Văn Hạnh (k4) .Rất mong các chiến hữu - đặc biệt là tác giả ,hãy bổ xung,chỉnh lí lại cho đầy đủ với :
SỞ TRƯỜNG
Xem ra công việc mở đường.
Nhiều anh cũng có sở trường rất hay.
Lâm “lùn” ngăn ngắn đôi tay,
Quai búa suốt ngày cứ để mặc tôi .
Hoạch “man” có tính hay ngồi,
Gì gì cứ để cho tôi giữ troòng,
Hai tay giữ thẳng troòng con,
Khéo múc bột đá móc lên thật nhiều .
Giang “kều” dân tộc dài nghêu,
Khoái đường trang hắn cứ đều đều kéo ra .
“Cô” Đức õng ẹo nhà ta,
Giữ trang sau hắn thật là chắc sao.
…..không nhớ được nữa…
Nghiêm Xuân Cường