Luân CCB K5
Kể từ năm 1975 tới nay đã nhiều lần đi công tác qua Quảng Bình.
Đã nhiều lần đi trên con đường mang tên Hồ Chí Minh mới làm sau này,
nhìn thấy cái biển chỉ đường Cự Nẫm ...km. Đã nhiều khi gặp những
người bạn học Quảng bình hỏi: Mày biết Cự nẫm không? Nó bảo biết chứ cách
nhà tao không xa. Thế mà Cự Nẫm tôi vẫn chưa trở lại. Cái vùng quê
heo hút trong trí tưởng tượng của tôi sam sám xanh, khen khét mùi khói
và rất nhiều con đường đất bùn trơn nằm bên con sông có rất nhiều lau
sậy đôi bờ.
Sắp đến tết rồi. Chúng tôi tới Cự Nẫm
vào lúc mờ sáng mưa phùn. Xuống ca-nô ở Quảng Thuận lúc nửa đêm chật
ngét. Ép giò bên nhau đến nỗi nghe tiếng hò đêm trên sông Gianh của các
o thanh niên xung phong cũng cứ ngèn nghẹt như người hụt hơi. Ấy thế
mà nhớ mãi... Ờ ơ...ơ... Sông Gianh (mừ) mãi mãi là sông Gianh. Anh đi
(mừ) đánh giặc ờ ơ chừ khi mô anh ờ ơ mới về... rồi ngủ lịm đi trong
tiếng sóng. Mờ sáng lên bờ cứ tưởng vẫn là sông Gianh. Giao liên bảo
nỏ phải mô, đây là bờ sông Son. Thì ra ca nô đã rẽ vào ngã ba sông,
rồi sang sông Son và chúng tôi đã đến gần Trường Sơn. Tưởng ngôi làng
bé hoá ra không phải. Gặp lính cũ họ bảo trạm này to, quan trọng.
Nhiều ban bệ lắm. Nhà kho, trường học cái gì cũng bé, nửa chìm nửa
nổi nhưng đâu cũng có cờ đỏ. Cờ đỏ cám dưới gốc cây to cho kín dáo. Bộ
đội đi lại nhiều hơn dân làng. Chả nhìn thấy ngôi nhà nào nguyên ven
như làng xóm ngoài bắc. Chìm dưới đất một nửa chỉ nhô lên cái mái lá
như úp vào đống rơm hé ra hai cái cửa lên xuống vài bậc. Người lên
xuống nhà cứ chui chui. Xuống cũng chui mà lên cũng chui. Ngoài vườn
nhô lên thành ụ, thành gò ấy là những cái hầm trú ẩn. Trẻ con chơi
trên nóc với những đàn gà và lũ chó con để tiện chui vào hầm khi máy bay
đến ném bom. Tối, ngồi trên nóc hầm trời thì lạnh không đèn đóm hỏi
bọ: bọ ơi sao con chẳng thấy nhà cửa gỗ lá tre pheo như ngoài ta? Bọ
bảo, dỡ ra hết rồi, lấy gỗ làm hầm kèo cho pháo, làm cầu phà và chống
lầy cho xe chở đạn đi vô. Bọ nói tỉnh queo. Thế dỡ nhà lấy chi mà ở? Thì chui xuống đất đó, bay thấy rồi nớ. Mạ bay chui lên chui xuống
còng lưng, con gái bọ cũng chui xuống chui lên cong cả mông khu. Bọ
thì nỏ cần. Bọ ngủ trên nì. Bom nổ bọ lăn cái uỵch xuống. Mạ mi càu
nhàu ông giả vờ lăn xuống để vô tui đó ha? Chúng tôi cười, bọ cười còn
lớn hơn.
Đến bữa cơm thấy lũ con nít loạng quạng xung quanh. Kêu
nó vô ăn cơm với chú. Nó nhào vào liền. Xới cho bát cơm nhoáng cái nó
chạy vèo ra sau mái lá quay ại đã ăn xong. Khiếp, nó lùa nhanh hơn cả
bộ đội! Thì ra nó đâu có ăn. Nó đổ bát cơm đó vào cái nồi con. Rồi nó
ra nưã. Chú cho bát nữa. Nó cũng lại ăn nhanh như rứa. Chịu chúng
nó. Các chú bộ đội nhe răng cười. Nể, nể.
Đã hai
ngày, vẫn chưa hành quân. Tới đây thì tiểu đội được phát thêm... đạn.
Lính tráng sợ hãi hồn khi thấy tiểu đội được thêm một thùng đạn AK.
Loại thùng bọc kín bằng tôn hình khối chữ nhật. Chắc nặng cỡ ngót chục
kí. Thế là san sẻ ra mỗi ngày một người vác thêm cái thùng đạn đó quay
vòng tròn. Trời thâm tím những mưa phùn. Buồn quá, hết ghi nhật kí
rồi lại ngủ. Nhà bên sát liền nhà mình có cô giáo viên cấp một trông rõ
xinh cũng ở trọ ở đó. Bọn A8 ở đó cứ díu vào cô giáo tán phét. Tóc
dài, áo phin hoa và con mắt thì đặc săc làm sao. Đôi lông mày cạo tỉa
để nhỏ cong như cái võng bộ đội mắc chùng. Xinh lắm nhưng chỉ tội cô
ấy có chửa nên bọn mình cũng ngại sang đó bắt chuyện. Nghe tiếng bom
pháo đã thì thòm mạn trong đoán đã gần chiến trường rồi thế là anh nào
cũng tranh thủ viết thư về, kể chi chít những là chúng con gần tới
chiến trường. Kể cứ như thật. Kì tình vẫn đang tán gái và mắc võng
ngủ ngày trên đất bắc. Tôi ngó vô cái nhà chìm của nhà chủ tôi. Tịnh
không thấy một thứ đồ đạc gì ngoài mấy cái nồi gang và một cái hòm đựng
thóc lẫn đồ đạc. Tết nhất đến nơi mà không có một dấu hiệu gì có vẻ tết. Tối qua nghe ông chủ nhà kể, ngày tết bộ đội có chi cho cái nớ, các
bọ ăn tết với các chú cho đoàn kết chứ no béo chi mô. Tôi hỏi xã không
phân phối hàng tết hả bọ? Có chứ. Bọ mua rồi đó. Hai hào dầu hoả, 2
bao diêm, 2 phong lương khô, lạng đường đỏ và có cả một bao thuốc lá
chi đó của ngoài bắc đó ... à à Nhị Thanh. Đó tết đó. Chúng tôi ngồi
nín thinh. Bao nhiêu năm nay như thế. Chiến tranh đã khiến cái vùng
đât xa xôi này chỉ đầy thêm lòng yêu nước còn thì vơi đi mất cái thú ăn
mặc đủ đầy. Ăn no thôi đã không được no thì lấy đâu mà đầy đủ mà ngon
mà gọi là thưởng thức. Bọ bảo, từ ngày máy bay Mỹ thả bom bọ chưa biết
đến cái quần đùi mặc bên trong cái quần dài. Thế nghĩa là sao hả bọ?
Bọ nhướng mắt. Rứa mà mi không hiểu? Là tau mặc quần đùi thì không
quần dài, mà đã mặc quần dài thì không quần đùi. Chiến tranh toàn diện
mà, phải tiết kiệm, phải tất cả cho tiền tuyến, để cho các chú đầy
đủ mà đi vô B mà đánh thắng thằng Mỹ chớ. Dạ hiểu, hiểu rồi bọ ơi.
Bọ cười. Nụ cười người nông dân Quảng Bình thật hiền và khô.
Chiều
26 tết. Buồn nẫu ruột. Tôi và Dương phỉ Cao Bằng rủ thằng Tứ người
Hải Dương tùng teng đi loanh quanh trong làng. Định bụng ra bờ sông Son
cho đỡ nhớ quê. Chúng tôi đi dưới con đường đất nhỏ hai bên rin rín
những tre cọc cằn. Một cô gái đi về phía chúng tôi. Ba thằng lính nín
thở nhìn nhau. Ô con gái ở đây thân tình thế. Từ xa cô ấy đã cười,
chào mấy eng lính mới tò te. Thằng Dương bảo khẽ: tò te cái le te te,
te cái khỉ.
Tay cô gái đỡ cái nón ngửa giông hệt gái quê mình cầm
nón đi vay gạo nhà hàng xóm trở về. Sát vào nhau, hai thằng nhòm vào
lòng nón còn mình nhòm cô gái. Chắc chỉ độ 19 tuổi thôi, tóc loe hoe
đuôi ngựa, chân sắn quần chưa có bắp giọng nói thì chua loe loe. Cô ta
cũng nhìn vượt qua hai cái đầu của Dương và Tứ đang nhòm vào cái nón
lăng sang tôi. Tôi cười cô ấy cũng cười. hai thằng đồng đội thì không
biết chúng tôi cười với nhau. Dương hỏi: đồng bào đi mô về? Cô gái
cười chun mũi: đồng bào đi lấy hàng tết cho bọ mạ.
Trời ơi hàng
tết? Thật đúng như Bọ nói với tụi tôi tối qua. Trong lòng cái nón nưng
nức mồ hôi và hương bồ kết là 5 cái bát Hải Dương loai 2 méo mó. Mấy
bao diêm và nổi bật là bao thuốc lá Nhị Thanh. Tuồng như cô gái không
để ý chúng tôi đang băn khoăn về cái sự nghèo nàn của tết nơi này, cô
hỏi thao thao: Chừng mô các anh vô? Các anh ở đoàn 3002 nớ phải không? Địa phương biết các anh là lính sinh viên thủ đô đó tề. Chu cha,
thương hè, học hành rứa mà vô B, uổng hè.
Thằng Dương chớp ngay, thương thì cho bao thuốc này đi hè.
Lập
tức cô gái đưa ngay bao thuốc cho Dương. Tôi ngúc ngắc cái đầu mà
Dương không biết. Nó lia lịa nói cám ơn cám ơn. Tôi và Tứ sau giây
phút đó thì định thần thấy nôn nao buồn như vừa làm một việc gì sai trái
lắm. Dương ơi mày quá thể đáng, trả lại bao thuốc tết của gia đình
cô ấy đi. Nhìn bóng cô gái thấp thoáng sau bụi tre Dương cầm bao thuốc
chạy theo.
Chúng tôi im lặng đi ra bờ sông Son. Bên kia sông, tôi nhìn rõ một ngôi đình và những hàng cau. Tôi nhìn rõ những người
đàn bà ra sông chiều cuối năm giặt chiếu và cọ lá bánh hoặc kị cọ cái
nồi đã úp để không từ cuối mùa tết năm ngoái. Chiều cuối năm sông gờn
gợn buồn. Tiếng đập chiếu vọng từ bên kia sông, tiếng lao xao của trẻ
con nô đùa và tiếng quát tháo con cái từ bên kia sông như mơ hồ nôn nao. Tôi bỗng nhớ chiều quê tôi những ngày áp tết.
Ngồi đây, đầy
những lau và hoa lau phơ phếch. Cỏ may quấn lâm nhâm gấu quần lính. Bờ
cỏ ươn ướt. Kệ, chúng tôi ngồi nơi bờ sông nhìn mê mải về bên kia
nơi có cái đình làng âm u trong chiều sẫm. Bờ bên này có mấy đứa trẻ
chăn trâu đang lom lom nghịch trò gì đó. Bỗng chúng nó chạy vọt ra mỗi
đứa một ngả. Bùm xoẹt xoẹt. Một luồng khói tím phả xuống sông. Luồng
khói bùng lên rất nhanh rồi loáng cái nó tan biến cái màu hồng tím, mặt
sông gờn gợn lai trở lại bình yên. Hoá ra lũ trẻ con ở đây đốt ồng
phóng B40 liều lĩnh bằng một đoạn dây cháy chậm. Tôi bần thần, những
đứa bé kia có được biết đến bài thơ nào của Trần đăng Khoa chưa? Có biết
tờ báo Thiếu niên Tiền phong có hai anh chàng Bóng Nhựa và Bút Thép bao
giờ chưa? Chúng nó biết chơi những trò chơi chết nguời trước khi biết
đến một cuốn truyện tranh Kim Đồng. Một vườn hoa hay một cái cánh đồng
hoa ghế đá dưới gốc cây và rất nhiều trẻ em chơi đùa gọi là Công Viên.
Chiến tranh là thế. Cự Nẫm đón rồi tiễn đưa biết bao người đi chiến đấu, Cự Nẫm đón biết bao người trẻ trai thương tật trở về. Cự Nẫm gặp đủ
tầng lớp trai tráng của đất nước này. Cự Nẫm biết rất nhiều thứ giết
người của kẻ thù và của chúng ta, Cự Nẫm rất nghèo, Cự nẫm là địa chỉ
mơ ước của người lính đi B mong một ngày trở lại.
Gà gáy sáng
hôm sau chúng tôi hành quân. Mưa phùn lạnh. Làng xóm vẫn yên giấc.
Cái giấc ngủ người nghèo trằn trọc sang cả những người lính trú quân nơi
này. Họ đã quen với những cuộc chia li như thế này từ bao năm nay,
mọi sự bình thường đến nỗi con chó con nhà chủ tôi ở cũng không buồn sủa
khi cả tiểu đội tôi chộn rộn. Bọ mạ vẫn ngủ dưới nhà hầm, mưa rơi tí
tách trên lớp lá cọ che đống rơm khô đầu nhà, mấy tàu lá chuối xơ xác
loáng bóng trong bóng tối. Cả trung đội tập trung ở sân nhà bên cạnh.
Sân trơn như mỡ. Chúng tôi còng rạp lưng với ba lô căng phồng để bắt
đầu từ ngày hôm nay bước vào Trường sơn. Tôi khoác khẩu AK lên nóc ba
lô đằng sau. Trượt ngã oạch trên sân đau điếng người. Cả B đi hết cả,
một mình loay hoay nằm trên sân cố nâng cái ba lô nặng chịch đứng lên.
Trong bóng đêm, nằm sát mặt đất tôi nhìn rất rõ từ dưới nhà hầm chui
lên một bóng người, lại một bóng người nữa đeo ba lô xuất hiện. Tôi
nín thở. Cô giáo cấp một bụng chửa thì thầm, chú đi may mắn mà về nhé.
Tiếng của bóng đen đeo ba lô kia cũng thì thầm ươn ướt. Chúc chị mạnh
khoẻ... rồi có tiếng chị... hôn ...em nhé để em đi. Hai bóng người cố sát
vào nhau thật khó nhọc. Cái bụng chửa vượt mặt cứ đẩy người đeo ba lô
ra xa, cái ba lô thì cứ kéo ngửa khuôn mặt người con trai không cho gần
lại. Họ hổn hển, thì thầm họ khóc thì phải rồi họ buông nhau ra, đêm
đen như màu mực tàu cuối năm dinh dính nước. Tôi đứng dậy được từ lúc
nào, ngoài sân kho tập trung có tiếng còi toe toe của các đơn vị tập hợp.
Hơn
bốn mươi năm tôi chưa trở lại Cự Nẫm. Cứ giở mạng ra đọc thấy nhiều
tin về cái tên này. Trường PTTH Cự Nẫm có học sinh giỏi toàn quốc,
chuyện xây dựng khu di tích lịch sử cấp quốc gia Cự Nẫm... nhiều lắm .
Cự Nẫm không xa, không thăm thẳm trong trí nhớ nữa. Cự Nẫm cứ hằn sâu
trong tôi là tấm lòng người dân nơi này.
Hơn
bốn mươi năm qua, chỉ tôi biết người lính cùng trung đội được cô giáo
cấp một ôm hôn vào lúc gà gáy khi rời Cự Nẫm. Bạn tôi hi sinh ở Đồng Dù,
Củ Chi vào ngày 29/4/75.
Còn cô giáo, tôi chắc là cô đã nghỉ hưu và cô sống hạnh phúc.
6/2012NTL
6/2012NTL
Zin Ba Cầu
Lại một lần nữa tôi khóng có được may mắn như lính 1040 hay 3002.Bởi cũng vào sông son nhưng chúng tôi đi luôn cả đêm mãi gần sáng thì mắc võng ngủ trong rừng.Trước đó từ Nghĩa Đàn trở vào chúng tôi đã không được tiếp xúc với dân rồi cho đến tận Quảng trị.Hạnh phúc thay cho người lính nào nghe được tiếng o du kích hay o giao liên.Tôi không có hạnh phúc đó nên phải quay ra sớm chăng?
Trả lờiXóaBác Luân phải mở riêng một blog Nguyễn Thành Luân - ĐHCĐ. Có cảm giác bác viết mãi vẫn không hết những kỷ niệm thời chiến tranh, những kỷ niệm Trường ĐHCĐ...Đọc câu "Bạn tôi hy sinh ...29/4/75" không biết bao giờ mới thoát khỏi những ký ức nặng nề về chiến tranh. Một ngày nữa thôi là người lính đó có dịp trở lại "địa chỉ mơ ước"...
Trả lờiXóa