Nguyễn Trọng Luân
Bây giờ đi tìm mãi cái áo như cái áo ngày xưa không được. Tôi ân hận một thì vợ tôi ân hận hai. Vợ tôi bảo, sao ngày ấy anh không vay tiền của em mà lại đi bán cái áo đó đi. Còn bạn tôi, Sỹ chỉ thở dài, bảo chúng mình khổ quá.
Hai mươi lăm năm ám ảnh vì tấm áo đó, lại mười năm nay day dứt đi kiếm một cái áo y chang để giữ làm kỉ niệm không được. Tôi và Sỹ vẫn buồn, dù huyễn hoặc mình thế nào chăng nữa cũng vẫn buồn.
Anh Bàn sinh năm 1948 hơn bọn tôi 4 tuổi. Vào đơn vị tôi từ năm 68. Lũ lính sinh viên tụi tôi nhìn các anh Mậu Thân như những người anh hùng trong phim Liên Xô. Anh Bàn cũng coi chúng tôi như như đứa em nhỏ. Anh bảo, chúng mày bằng thằng em tao ở nhà. Hành quân anh mang hộ cả cuốc xẻng. Có lần anh mang hộ Sỹ một bọc toàn sách vở thư từ. Anh lẩm bẩm, mẹ kiếp toàn thư tình, bao nhiêu con mà nặng thế. Dừng chân ở đâu là anh ca cóng đến tài. Cái ăng-gô của anh đen nhẻm. Bọn tôi khoái, vừa húp bát canh chua của anh nấu vừa gọi “cụ Bàn“. Cụ Bàn hay tàng trữ thuốc rê đồng bào. Cụ Bàn lúc nào cũng có mì chính, cụ Bàn có gói đường bé bằng bao diêm đứa nào ốm cụ Bàn vê cho một cục uống cho lại sức. Đêm trú quân anh kể, nhà anh ở thị trấn Trới. Khiếp tên gì mà xấu thế. Anh lườm tôi. Tên thì có gì mà xấu chỉ có người tốt người xấu thôi.
Hết chiến dịch này chiến dịch khác. Anh bảo chỉ mong sau này về, mặc quần áo thật oách đi hỏi vợ, bọn con gái thị trấn không còn chê Bàn quần đùi nữa.
Tôi nghĩ chắc ngày ở nhà anh hay mặc quần đùi. Nhưng im không hỏi .
Mùa xuân năm 1975. Chiến trận cuốn đi như lũ. Từ Buôn Hồ, Ban Mê Thuột chúng tôi đánh lên Cheo Reo rồi tràn ra Tuy Hoà. Sư đoàn lại ào ào tiến về đánh Củ Chi. Đêm 28 tháng tư bẩy lăm, chúng tôi đánh vào Tân Phú Trung cách Sài gòn chưa đầy 25 cây số. Đất cứng quá đào hầm từ nửa đêm tới sáng được cái hố đến đầu gối. Phía Đồng Dù pháo bắn dữ dội. Địch chạy vào trận địa đông như vịt đàn chạy sang đường. Anh Bàn và Sỹ ngồi chung hầm. Anh đẩy Sỹ ra phía sau, hai anh em kéo thêm đống rơm kê làm bệ bắn. Hầm nông quá, người cứ nhấp nha nhấp nhổm. Anh thét, Sỹ mày bắn đằng sau, tao bắn phía ngoài đồng. Cát tút AK văng vào nhau lại rơi vào chân bỏng rấy. Một quả pháo nổ gần mảnh bay rào rào. Sỹ nhắm mắt lại thì nghe anh nói “thôi mờ đời rồi''. Anh ngửa người đè vào Sỹ, ngực áo thấm tý máu bằng hạt ngô. Anh Bàn chết ngay lúc ấy trên tay Sỹ. Đặt anh xuống hầm Sỹ ôm súng bắn lia bắn lịa. Địch chạy dạt ra ngoài đồng. Rồi trận đánh tan. Đại quân lại ào ào tiến vào thành phố. Tôi và Sỹ ngẩn ngơ để anh ở lại cho các mẹ Tân Phú Trung và C25 chôn cất rồi chạy theo đơn vị. Trước khi đi, Sỹ mở ba lô của anh lấy ra một caí áo gọi là Mông-tơ-ghi cộc tay màu mận chín. Chắc anh nhặt đâu trên đường vì vẫn còn vết bẩn. Sỹ bảo tôi, giữ làm kỉ niệm của anh. Dọc đường tiến vào Hốc môn tôi nhớ lại có lúc anh bảo, tụi mày đeo kính râm làm quái gì, đội mũ giải phóng đeo kính râm trông như bộ đội giả, nhặt những cái quần áo tươm tất nay mai về mặc đi học. Sau hôm ấy tôi và Sỹ không đứa nào tàng trữ và đeo kính râm nữa.
Chúng tôi về. Để lại sau lưng bốn năm đời lính chiến biết bao vui buồn, hào hùng mà cũng đầy nhọc nhằn khốn khổ. Để lại sau lưng mình bao kỉ niệm và những nấm mồ đồng đội nơi núi sâu đồng vắng. Mọi nỗi mất còn đơn giản như cái ba lô nhẹ tênh của chúng tôi ngày lên xe ra bắc. Sỹ vào đại học quân y năm thứ tư, tôi cũng thế, vào học tiếp năm thứ 3 đại học Cơ điện. Chiến tranh như đã xa lắc tự bao giờ bởi thay vào nỗi nhớ là đồ án là bài vở và cuộc sống nghèo như nước lã của sinh viên. Hàng tuần hai đứa vẫn tìm về với nhau. Chỉ có lúc ấy, ngồi ôn lại những ngày đã qua mà rưng rưng nhớ rừng, nhớ đồng đội. Hai đứa giở cái áo của anh Bàn mà tưởng như anh lại ngồi đâu đây, tưởng như lúc anh nhìn Sỹ rồi tắt thở trên cánh đồng Tân Phú Trung ngày cuối cùng của cuộc chiến ba mươi năm. Anh Bàn ơi, sẽ chẳng bao giờ anh còn đựơc mặc cái áo thật đẹp này đi hỏi vợ nữa. Các cô gái phố Trới sẽ chỉ mãi nhớ anh là anh Bàn quần đùi thôi. Một chiều mưa ở khu nhà cấp bốn đại học Quân y Hà Đông tôi và Sỹ ngồi thật lâu bên tấm áo ấy.
Thế mà cả hai đứa tôi đều mụ mị, đều sai lầm để phải ân hận tới bây giờ.
Năm 1978 tôi làm tốt nghiệp đại học. Hồi ấy tôi được 31 đồng phụ cấp bộ đội xuất ngũ. Mọi thứ chỉ vừa đủ ăn. Còn học, còn giấy vẽ, tài liệu... tuốt tuột không trông vào đâu. Tôi đã bán cả tăng, cả võng bộ đội thậm chí cả đôi dép nhựa Tiền Phong là thứ đồ thời trang ngày ấy của sinh viên. Sắp đến ngày bảo vệ đồ án, giấy bút nợ nần tùm lum. Sỹ thương tôi quá. Một chiều nó gọi tôi vào Hà Đông, ngắc ngứ mãi rồi nó bảo, hay mày bán cái áo của anh Bàn đi mà lo thi cử, chắc anh ấy cũng thông cảm và thương cho tụi mình thôi. Và, cái quyết định này đúng hay sai chả biết. Tôi cầm cái áo ra về lòng nặng trĩu. Sỹ đứng nhìn bịn rịn như chia tay một người bạn đi xa. Tôi bán cái áo ấy cho một bác thợ may trên đường. Cái quán may ấy ngay đầu đường làng Tám. Bây giờ nơi đó sừng sững một cái khách sạn mang tên một loài hoa ngay mặt đường Giải Phóng rẽ vào làng Tám. Người thợ may trả cho tôi những 60 mươi đồng vừa đúng tháng lương kĩ sư ngày đó. Thế là tôi trang trải đủ nợ nần và có tiền lo xong kì thi tốt nghiệp đại học. Tôi ra trường. Đi làm. Lấy vợ, đẻ con, lang thang ở nhờ ở thuê, rồi con lớn có nhà cửa, chốc đã hơn hai mươi năm. Trong hai mươi năm đó, ít khi nhớ lại chuyện bán áo của anh Bàn. Cứ như là việc đương nhiên phải thế. Cái lí của người sống cứ vin vào sự bận rộn đời người để quên đi người đã chết. Nhưng sự thật thì không thế như thế mãi. Đến năm 2000. Khi nhà tôi đã đàng hoàng cao rộng thì nỗi dằn vặt bỗng trở về. Đêm nào tôi cũng nằm mơ thấy anh Bàn, thấy cái áo mầu mận chín tôi đã đưa cho ông thợ may trên đầu phố Tám từ hai mươi năm trước. Tôi nói với Sỹ. Sỹ khuyên tôi đừng nghĩ ngợi quá mà trầm cảm. Nhưng chính nó cũng thở dài buồn rượi. Rồi một sáng tháng mười năm 2003 tôi mua hai vé máy bay, hai vợ chồng vào Củ Chi tìm mộ anh Bàn. Cánh đồng Tân Phú ngày nào giờ vẫn là những ruộng dưa, những dặng bầu trâm ngút ngát. Cái bụi tre anh Bàn trúng đạn già cọc cằn vẫn đó. Những nấm mồ đồng đội tôi ngày ấy đã qui tập về An Nhơn Tây, gần đền bến Dược. Chúng tôi lại lên An Nhơn Tây. Mười ngàn ngôi mộ lặng lẽ nằm bên bờ sông Sài Gòn ngút gió bạt ngàn màu xanh. May mắn cho vợ chồng tôi nhờ các anh chị quản trang dẫn lối chúng tôi tìm được khu mộ liệt sĩ của sư đoàn 320. Thật không thể nói hết mừng vui khi chúng tôi tìm thấy mộ anh Bàn bên bao nhiêu đồng đội cũ. Những cái tên ghi trên mộ chí đều thân thuộc mà gần ba mươi năm sau mới gọi nên lời. Trưa nắng. Ve kêu ran ran trên cây. Gió ngạt ngạt thổi. Ở nghĩa trang liệt sĩ đến nắng cũng xanh, gió cũng xanh. Sông Sài Gòn đầy lục bình, xanh cả mặt sông. Anh Bàn ơi, em về thắp hương cho anh đây, Sỹ nó đi vắng chỉ có vợ chồng em về với anh thôi. Tôi đặt lên mộ anh gói thuốc lào, bông hoa cúc vàng mua dưới chợ Tân Quy. Tiếng ve vẫn rối bời như một thủa đánh nhau mùa khô trên Tây Nguyên, như thấy anh Bàn ca cóng cặm cụi, thương mấy thằng em chúng tôi đang hiện về. Nghẹn ngào, kể cho anh nghe, rằng nhờ cái áo của anh em thi tốt nghiệp đại học, rằng bây giờ em đã trưởng thành, vợ con đề huề rằng... chúng em còn nợ đời lắm lắm.
Mấy năm nay, hai đứa tôi bảo nhau tìm mua một cái áo giống như thế để giữ làm kỷ niệm kiểu như kỷ niệm vọng. Thế mà cũng khó, thời ấy xa rồi bây gìơ quần áo vải côtông, kiểu cách khác lắm, tìm đâu ra mẫu áo của bốn mươi năm về trước. Cuối năm 2005 cả tôi và Sỹ lại trở về Củ Chi. Chúng tôi mắc võng nằm ngủ đêm ở An Nhơn Tây, bên vạt rừng bờ sông Sài Gòn nơi chúng tôi đã nằm hai ngày chờ giờ xuất kích đánh vào thành phố. Nằm trong hương đồng Củ Chi, đêm tanh ngái mùi bùn và cỏ, có anh Bàn và những đồng đội kề bên. Lặng lẽ soi mình về mấy mươi năm trước, thấy mình nhỏ bé với anh với những người bạn không được trở về. Trong đầu chúng tôi hiện về cả một trung đoàn thời đạn bom ác liệt, một đội hình có anh Bàn, cái áo kỉ vật của anh, vẫn hình dung rõ trên cái áo đó có đặc điểm gì dấu vết gì. Chúng tôi mang nỗi day dứt đó đến bây giờ. Tấm áo ấy là kỷ vật, mà kỷ vật thì không mua được.
Anh Bàn ơi, tha lỗi cho chúng em.
Rất cám ơn Dũng chít , lập ra trang này dễ cho anh em k6, đi bộ đọi về hơn . Tâm tư không bị chồng đè , và đồng cảm hơn cho những thằng lính nay về già . Nhưng K6 , là một phần hồn trong nhiều đoàn đã đi chiến đấu chứ không chỉ riêng 1040 . Lính già này đề nghị :
Trả lờiXóaKêu gọi diễn đàn này cho những người lính CĐ .
_ Nhưng vì đã có tên CCB Cơ Điện rồi nên Lấy tên khác đi > Tên thế nào xin MÕ CCB nghĩ để anh em ủng hộ
thị trấn Trới ở Hoành bồ,Quảng ninh đó ,Luân có thể liên hệ với người thân của anh Bàn để giúp Họ đưa hài cốt về quê được không.
Trả lờiXóaChào Thọ mom .
Trả lờiXóaSau lần Vợ chồng mình rồi lần sau mình và Đinh Ngọc Sỹ vào thăm mộ anh Bàn . Chụp ảnh mộ chí cẩn thận Vợ chồng Sỹ với vợ chồng Luân về Hoành bồ tìm nhà anh ấy . Khi đến phố TRới hỏi nhà anh ấy Thọ biết không họ trả lời ;
- Bác cứ đi dọc phố nhà nào nghèo nhất là nhà ông Bàn liệt sĩ .
Quả đúng , duy nhất một căn nhà cấp 4 lọt giữa dẫy phố cao tầng . Mới vào cửa bọn mình đã nhìn thấy ảnh anh Bàn đầy mạng nhện . Bà cụ già ngoài 80 rên hừ hừ , đứa em trai anh Bàn ngồi bơm xe ở cửa ngặt nghẽo đi vào nhìn bọn mình trô trố . Nó nghiện nặng lắm và luôn mồm chửi bà già .
Bọn mình lau bàn thờ , thắp hương cho anh , biéu cụ ít tiền . cụ bảo : Thôi biết được nó nằm ở đâu là được rồi , chẳng muốn đưa về nữa .Đưa về thằng em nó chửi suốt ngày tủi vong linh nó .
Bọn mình ra về trong ngậm ngùi Thọ ạ
cậu làm cho tớ phát khóc đươc luân ạ
Trả lờiXóaký ức về những năm tháng hào hùng.các bác cần tìm áo mông tơ ghi màu mận chín kiểu ngày xưa cách đây vài chục năm có thể liên hệ em tìm giúp theo số 0906 tám tám chín chín tám 2 (tại hà nội).
Trả lờiXóa