Hưởng ứng blog vận động viết về ngày 20-11
Nguyễn trọng Luân Lính 3002
Bây giờ, tôi gọi cô là chị. Dĩ nhiên cô hơn tôi vài tuổi. Nhưng cái lý không ở chỗ tuổi tác, mà ở chỗ cô coi tôi là em trong nhà.
Bốn mươi năm nay vẫn thế. Lúc vui lúc buồn, nghĩ về anh là tôi nhớ về chị. đến thăm chị lại nhớ về anh. Tôi trọng anh bao nhiêu tôi nể chị bấy nhiêu. Chị và anh đều là thầy của tôi ở ĐH Cơ Điện.
1972. Tôi nhập ngũ. Anh là giảng viên khoa Điện cùng nhập ngũ một ngày với tôi. Ngày về đơn vị, chúng tôi nhẹ nhàng, náo nức hăm hở, nhưng các thầy giáo cùng nhập ngũ ngoài cái vẻ lạnh lùng, chỉn chu quân lệnh là nỗi niềm trăn trở vợ con mà chúng tôi đâu có hiểu. Các thầy gần ba mươi tuổi, nhiều thầy đang chuẩn bị thi nghiên cứu sinh, đằng sau các thầy là vợ con và nếp nhà tranh nhỏ xíu trên vạt đồi Tích Lương. Nhà thì nhỏ mà sách thì nhiều. Sách nhiều bao nhiêu tiếng con khóc càng thêm nhói ruột bấy nhiêu. Thời đói kém ấy cộng cả hai vợ chồng thầy cô, cân nặng chỉ chòm chèm 90 kí.
Tôi ở B3, còn anh - thầy Nguyễn văn Huấn, thầy Mạnh Hùng ở B4. Thầy Kim Long, Phi Hùng ở B1. Thầy Bính ở B2, thầy Lâm ở cùng B với tôi. Kể từ ngày 15/9/1972 chúng tôi gọi các thầy là anh. Anh Huấn, anh Hùng, anh Long, anh Bính, anh Lâm. Trong các anh, chỉ có anh Huấn (k7 Bách khoa) là có vợ. Một hôm, trời rét, chị Phước vợ anh Huấn bế thằng con thứ hai, tay dắt thằng con thứ nhất xuống thăm chồng. Chiều tối B trưởng cho anh Huấn nghỉ sớm, tiểu đội đựoc phép lấy cơm về ăn tại nhà. Chúng tôi đến thăm chị và cháu. Chị bảo, bây giờ chị vào dạy K6 trong Bình Định. Chúng tôi biết tối nay chị đưa hai đứa con qua đò sông Công để mai còn lên lớp. Đang lúc lương anh 75 đồng, lương chị 64 đồng. Nay mình chị 64 đồng còn lương anh binh nhì 5 đồng. Hai đứa con lay lắt lại càng lắt lay. Chị giành mỗi tháng bóp mồm bóp miệng ba mẹ con để cho anh mười đồng. Anh không lấy. Chị giận. Anh mếu, chị khóc. Thằng Hùng, thằng Hiệu toe toét cười nhìn hai bố mẹ nó dùn dẩy tờ giấy bạc Bác Hồ tóc mượt. Chúng tôi huấn luyện để đi B. Các thầy cũng thế, phía trước chúng tôi là một con đường Chiến trường đạn bom . Trong khi chúng tôi phơi phới niềm tin Lê Mã Lương, chúng tôi đâu có hiểu tâm tư các thầy. Tuyệt nhiên, trong những ngày ấy tôi chưa thấy một thầy giáo nào ở ĐH Cơ Điện của tôi buồn nản. Các thầy chia cho chúng tôi vài hào, bao bọc mỗi khi chúng tôi mắc khuyết điểm. Các thầy đứng ra nhận khuyết điểm thay cho trò những kì sinh hoạt đại đội .
Trước khi đi B một tháng. Tất cả các thầy được chuyển về D60. Đó là tiểu đoàn toàn kĩ sư và cử nhân để chuyển đi các đơn vị khác ở hậu phương. Cô Phước lại đưa hai đứa con xuống. Tối ấy thầy Huấn, cô Phước có bao nhiêu tiền chia cho học trò tất cả. Các thầy khác cũng thế. Mặc dù lúc ấy không ai biết đơn vị mới có nhiệm vụ gì, chỉ biết là từ nay thầy trò xa nhau. Các thầy đi rồi lũ lính SV Cơ Điện buồn hiu.
Kỉ niệm về đời tân binh gắn liền với các thầy của mình bao nhiêu vui buồn lùi lại đằng sau bốn năm chinh chiến. Chiến tranh kết thúc chúng tôi về lại trường. Chỉ có các thầy không về. Thầy nào cũng đã trở thành sĩ quan trong nhiều quân binh chủng. Thầy Long ở Quân khu 1. Thầy Hùng về hải quân, thày Lâm về cục kĩ thuật. Còn thầy Huấn về bộ TL Lăng.
Cô Phước vẫn dậy Sức bền Vật liệu ở trường. Bây giờ hai đứa con trai đang ăn học. Chúng nó quấn quít tụi chúng tôi như người nhà. Chị vẫn nghèo xác xơ, anh lại ở xa, nhìn chị phấp phới đi cái xe đạp tàng sau giờ lên lớp người như chực bay xuống ruộng. Nhớ ngày nao chị xuống Phú Bình chia cho học trò mỗi đứa vài điếu thuốc Tam Thanh.
Chúng tôi ra trường sống và làm việc tại Thủ đô. Phải mươi năm sau chị mới cậy cục xin được về trường Trung Cấp Xây dựng ngoài bãi Phúc Xá để vợ chồng gần nhau. Mỗi lần gặp anh chị tôi như được sống ở quê với gia đình mình. Anh hiền và cần mẫn, làm việc chỉn chu. Khi anh mang quân hàm thượng tá trưởng ban Kĩ thuật Lăng thì tai hoạ ập tới, ấy là năm 1995. Anh đi xe máy trên đường sau Bách Thảo. Một xe chạy cùng chiều vút lên đâm vào anh khiến anh văng xuống đường vỡ đầu. Cũng từ ngày hôm ấy, anh hôn mê. Sáu tháng nằm viện 108 không tỉnh, chị đưa anh về nhà chăm nuôi. Chúng tôi đến nhìn chị méo mó bên giường chồng, cái dáng nhỏ bé của chị che không đủ chỗ anh nằm. Đứa lớn đang học Đại học Mỏ, thằng bé vừa đi học Liên Xô. Mình chị, nước mắt chảy gần một năm vẫn chảy thâm cả má. Rồi thằng thứ hai bỏ học ở nước ngoài về học trong nước để chăm bố. Một năm, hai năm rồi năm năm anh vẫn nằm ngay đơ trên gường. Chị đi dạy về tới nhà là ngồi bên anh trò chuyện. Những gì diễn ra trong ngày chị kể lại, cứ ngày này qua tháng khác như thế. Chị bảo tôi, anh biết cả đấy, chị vẫn kể chuyện cho anh ấy nghe về chúng mày, chúng mày gọi điện đến anh ấy cũng chảy nước mắt. Nhìn cái hình hài của anh mấy năm lặng im trên giường sống thực vật tôi không tin là anh nhận biết xung quanh. Nhưng nhìn chị, niềm tin của chị thì ai cũng phải tin anh đang sống bình thường. Rồi đùng một cái chị gọi cho tôi. Chị bảo chị làm nhà mới. Chị đổi căn hộ tập thể lấy miếng đất ra ngoài đường Phan Kế Bính. Chị bảo phải làm ngôi nhà thật đẹp để một ngày anh ấy tỉnh lại anh ấy thật sung sướng. Nhà làm xong, thằng Nguyễn Trần Hiệu con lớn lấy vợ rồi anh vẫn không tỉnh. Nhưng chị vẫn tin là anh ấy sẽ tỉnh, anh ấy đang vui. Một tối Vũ Đình Khang K4 từ Hải Phòng lên, tôi và Khang cùng đến thăm anh chị. Anh vẫn như khúc gỗ trên giường. Khi bị tai nạn tóc anh chưa bạc mà nay đã bạc nhiều. Chị vuốt mớ tóc bạc của anh dịu dàng: anh Huấn ơi, chú Khang, chú Luân đến này, anh ơi hai đứa nó thành đạt lắm, mừng quá anh nhỉ. Rồi chị nói như reo, đấy anh biết đấy, anh chảy nước mắt kìa Luân Khang kìa. Tôi không nhận ra anh chảy nước mắt nhưng chị và hai đứa tôi đều ràn rụa nước mắt. Chị lại kể những kỉ niệm về những ngày khốn khó thủa anh đi bộ đội, thủa chị bồng con xuống thăm chồng, những kỉ niệm của thầy trò đồng đội bên nhau. Chúng tôi ra về ngước nhìn căn nhà 12 Phan kế Bính của chị mà khó tin vào niềm tin của người phụ nữ mảnh mai, một thời và mãi mãi là thầy giáo của mình.
Mười năm, kể từ ngày hôn mê anh mới ra đi. Thế là anh không thể tỉnh lại mà ngắm nhìn ngôi nhà quà tặng của chị. Anh chẳng bao giờ nhìn thấy hai cô con dâu và những đứa cháu nội ngoan ngoãn của mình. Chẳng bao giờ một lần nhìn thấy chị, người vất vả một đời từ những ngày ở trường ĐH Cơ Điện cho tới lúc vừa mới tạm yên hàn. Mười năm, biết bao nhiêu câu chuyện thủ thỉ của chị bên anh. Mười năm, mỗi khi chuẩn bị làm một việc gì chị cũng đều nói với anh rồi bảo đấy anh đồng ý rồi, làm được. Mười năm cho anh ăn, chải đầu ... giỗ tết hai bên chị cũng đều xin phép anh. Tôi cứ bàng hoàng về chị, bởi tôi là người chứng kiến. Dù vất vả là thế, nhưng những ngày gặp mặt Cơ Điện là gặp được chị. Chị vẫn nhanh nhẹn và vui vẻ. Người đàn bà có sức chịu đựng ghê gớm.
Năm 2007 kỉ niệm 35 năm ngày nhập ngũ chúng tôi đón chị lên Phú Lương. Chúng tôi vẫn thấy như anh Huấn còn sống, vẫn đang ở bên chúng tôi. Chị lên phát biểu, mà chúng tôi thì rưng rưng nước mắt.
Ngày 20/11 năm nay chị đang ở với cháu Trần Hùng bên Việt Hưng. Chúng em gửi lời chúc mừng chị.
Chị - cô giáo kính mến của chúng em, ngưòi phụ nữ có Sức Bền kỳ diệu. Cô giáo Trần Mai Phước.
Nhân đọc bài của Luân mình lại nhớ đến các thầy cùng nhập ngũ với bọn mình ngày ấy :thầy Huấn lớn tuổi nhất có lẽ hơn bọn mình gần chục tuổi ,còn thầy Hùng trẻ nhất chắc chỉ hơn bọn mình 4-5 tuổi ,tuy vậy các thầy vẫn phải chỉnh chu trước học sinh những lúc rèn luyện mệt nhọc ,mình còn nhớ hôm đơn vị đi lấy củi trong rừng ,đường xa ,củi nặng ,trông các thầy cứ tồi tội !
Trả lờiXóaNhân ngày 20/11 chúc các thầy -đồng đội luôn vui khỏe !
Hình như trong khó khăn ,gian khổ ,các thầy cô đã để lại trong ta nhừng hình tượng đẹp mãi !
Nhớ về đồng đội -người thầy đã khuất của mình.
Trả lờiXóacảm phuc chị - cô giáo kính mến Trần mai phước,
người phụ nữ có sức bền kỳ diệu...
nhân ngày 20 -11 những bạn lính của Luân ,mong chị khoẻ, hạnh phúc